CÁC VỊ THẦN ẤN ĐỘ TRONG TÍN NGƯỠNG BÀ LA MÔN VÀ HINDU GIÁO.
Lời tựa : Lẽ ra các bài tiếp theo trong mục : MẬT TÔNG - ĐẠO PHÁP - HUYỀN MÔN là những bài trong tập 2 cuốn THẦN THÁNH TRUNG HOA do bác Nhược Thủy dịch. Tuy nhiên  dienbatn đăng tiếp loạt bài  CÁC VỊ THẦN ẤN ĐỘ TRONG TÍN NGƯỠNG BÀ LA MÔN VÀ HINDU GIÁO để thay đổi không khí . Loạt bài viết này , dienbatn biên soạn lại theo những tư liệu sưu tầm được, những tư liệu đã đăng trên internet . Do vậy có thể có nhiều đoạn không ghi nguồn xuất xứ . Mong các tác giả lượng thứ khi dienbatn trích dẫn mà không ghi nguồn. dienbatn chỉ biên tập lại thành hệ thống làm tư liệu của mình và giúp các bạn tư liệu khi cần khảo cứu. Xin chân thành cảm ơn các tác giả đi trước. Thân ái . dienbatn.
7/Thánh nữ Sông Hằng Ganga. 
Hiện thân của thần Ganga - tranh vẽ của Raja Ravi Varma .
Đối với Hinđu Giáo, sông Hằng- với tên là Gaṅgā (tiếng Phạn và tiếng Hindi: गंगा Gaṅgā, tiếng Miến Điện: ဂင်္ဂါ, IPA: [ɡɪ́ɴɡà] Ginga; tiếng Tamil: gangkai, tiếng Thái: Khongkha) được miêu tả trong các văn bản Hindu và Ấn Độ là dòng sông thần thánh. Dòng sông được nhân cách hóa như một nữ thần, được người theo Hinđu Giáo thờ phụng; họ tin rằng ai tắm trên sông Hằng sẽ có thể giảm nhẹ tội lỗi của mình và đạt tới sự giải thoát khỏi vòng luân hồi của sự sống và cái chết. Những người hành hương đi từ xa tới đây để rải tro cốt của người thân xuống dòng nước sông Hằng, những mong linh hồn những người thân yêu của họ có thể sớm được siêu thoát. Nếu họ không đến sông Hằng, mọi người tin rằng, linh hồn sẽ khó được lên thiên đàng.
Nhiều thánh địa của đạo Hindu nằm dọc bờ sông Hằng, gồm có Gangotri, Haridwar, Allahabad và Varanasi. Suốt kỳ lễ Loy Krathong ở Thái Lan, các hoa đăng được thả xuống dòng nước để tỏ lòng tôn kính đức Phật Thích Ca Mâu Ni và nữ thần sông Hằng Ganga (พระแม่คงคา, คงคาเทวี) vì đã mang đến may mắn và rửa trôi mọi tội lỗi.

Nhiều câu chuyện Hindu đưa ra các phiên bản khác nhau về sự ra đời của thần Ganga. Theo một phiên bản, dòng nước thánh từ cái bầu đựng nước của đấng Sáng Tạo Brahma đã biến hình thành một thiếu nữ tên là Ganga. Theo một truyền thuyết khác tên là Vaishnavite, đấng Sáng Tạo Brahma đã rửa chân của thần bảo tồn Vishnu bằng một thái độ rất cung kính và rồi thu hết tất cả các giọt nước rửa chân này vào bầu nước thần Kamandalu. Phiên bản thứ ba kể rằng, nữ thần Ganga là con gái thần Himavan, vua của các ngọn núi, người mà có người phối ngẫu là thần Mena; do đó, thần Ganga là chị em với nữ thần Parvati. Mọi phiên bản đều cho rằng thần Ganga được nuôi nấng trên Thiên đàng, chịu sự nuôi dạy trực tiếp từ Brahma.

Vài năm trôi qua, một vị vua tên là Sagara đã dùng phép màu thu phục 6000 con trai. Một ngày, vua Sagara tiến hành nghi thức cầu phúc lành cho vương quốc. Một phần không thể thiếu trong biểu lễ là một con ngựa, nhưng đã bị đánh cắp do sự ghen tức của thần Mặt Trời Indra. Sagara ra lệnh cho tất cả các con trai đi khắp nơi trên Trái Đất để tìm kiếm con ngựa. Họ đã tìm ra con ngựa ở cõi dưới, ngay gần chỗ tu sĩ Kapila đang ngồi thiền. Tin rằng tu sĩ đã đánh cắp con ngựa, họ ném những lời xúc phạm vị tu sĩ, khiến cho việc tu tập hành xác bị gián đoạn. Lần đầu tiên sau nhiều năm, vị tu sĩ mở mắt và nhìn vào các con trai của Sagara. Với chỉ một ánh nhìn đó, tất cả 6000 chàng trai bỗng bị bốc cháy cho đến khi chết hết.
Linh hồn của các hoàng tử vua Sagara trôi dạt vì chưa được làm lễ tiễn đưa. Khi Bhagiratha, một trong những hậu duệ của vua Sagara, con trai của Dilip, biết được kiếp nạn này, ông thề sẽ mang thần Ganga hạ giới để lấy nước của thần thanh lọc các linh hồn và siêu thoát cho họ về Trời.
Bhagiratha cầu Brahma cho Ganga được hạ giới. Brahma đồng ý; Ngài ra lệnh cho Ganga hạ giới và sau đó xuống cõi dưới để các linh hồn là tổ tiên của Bhagiratha có thể lên được thiên đàng. Ganga cảm thấy rằng đây thực sự là một sự xúc phạm, nàng quyết định rằng khi hạ giới sẽ quét sạch cả Trái Đất. Được thông báo về điều này, Bhagiratha cầu xin thần phá hủy Shiva ngăn chặn việc hạ giới của Ganga.

Ganga kiêu ngạo hạ ngay xuống đầu thần Shiva. Nhưng thần Shiva đã rất điềm tĩnh bẫy nàng trong sợi tóc của thần và để cho nàng thoát ra bằng một dòng suối nhỏ. Cuộc chạm trán với thần Shiva làm cho Ganga trở nên kiêu ngạo hơn. Khi Ganga xuống cõi dưới, nàng đã tạo ra một dòng suối khác để vẫn được ở trên mặt đất mà giúp đỡ làm thanh sạch các linh hồn kém may mắn ở đây. Nàng là dòng sông duy nhất chảy qua ba thế giới: Swarga (thiên đường), Prithvi (hạ giới) and, Patala (cõi dưới hay địa ngục). Do đó, thần được gọi là "Tripathagā" (người đi qua ba thế giới) trong tiếng Phạn.
Vì những nỗ lực của Bhagiratha nên Ganga nên dòng sông còn được gọi là Bhagirathi, và từ "Bhagirath prayatna" được sử dụng để miêu tả những nỗ lực quả cảm hay những thành công đạt được qua khó khăn.
Một tên khác mà Ganga được đặt cho là Jahnavi. Chuyện kể rằng, một lần khi thần Ganga hạ giới, trên đường tới Bhagiratha, dòng nước cuộn mà thần tạo ra đã tạo nên sự bất an và phá hủy các cánh đồng, cũng như là của một vị tu sĩ tên là Jahnu. Vị tu sĩ giận dữ, ông đã uống cạn dòng nước Ganga. Lúc này, các vị thần cùng cầu xin cho Ganga để nữ thần có thể tiếp tục thực hiện sứ mạng. Cảm thấy hài lòng với những lời cầu xin, vị tu sĩ thả Ganga (và dòng nước của thần) từ lỗ tai ra. Do đó mà có cái tên "Jahnavi" (con của Jahnu) đặt cho Ganga.
Santanu ngăn Ganga dìm chết đứa con thứ 8 của họ, đứa trẻ sau này lớn lên và trở thành Bhishma.
Thỉnh thoảng, người ta tin rằng, dòng sông chắc chắn sẽ cạn vào cuối kỷ Kali Yuga (kỷ bóng tối- chính là kỷ nguyên hiện tại của loài người), giống như là dòng sông Sarasvati; sau khi sông Hằng cạn thì kỷ này cũng chấm dứt. Theo vòng tuần hoàn, thì kỷ tiếp theo sẽ là Satya Yuga- kỷ nguyên của Sự Thật.
Thần Ganga được miêu tả trong "Độc Tụng Vệ Đà" Rigveda, cuốn kinh sớm nhất và theo tương tuyền là thần thánh nhất của đạo Hindu. Thần Ganga được đề cập đến ở phần ca ngợi dòng sông nadistuti (Rigveda 10.75), gồm có danh sách các sông từ Đông sang Tây. Trong RV 6.45.31, từ Ganga cũng được nói tới nhưng không rõ là từ này dùng để chỉ dòng sông. RV 3.58.6 viết rằng "ngôi nhà xưa của Người, người bạn quý của Người, anh hùng ạ, của cải của Người đều nằm hai bên bờ Jahnavi (JahnAvyAm) cả". Dòng thơ này cũng có thể đang đề cập đến sông Hằng. Trong RV 1.116.18-19, sông Jahnavi và cá heo sông Hằng xuất hiện trong hai dòng thơ cạnh nhau.
Theo các cuốn kinh của đạo Hindu như Skanda Purana, nữ thần sông Hằng là mẹ nuôi của Karttikeya (Murugan)- con trai của thần Shiva và Parvati.
Parvati người đã tạo nên hình hài của thần voi Ganesha (con trai của Shiva và Parvati) từ những phần nhơ nhuốc của cơ thể bà; sau này thần Ganesha đã được ban cho sự sống nhờ nước thánh của thần Ganga. Do đó, Ganesha được xem như có hai bà mẹ—Pārvati và Gangā, và cũng vì thế nên được gọi là Dvaimātura và Gāngeya (con trai của Ganga).
Theo truyện Devi Bhagavata Purana, thần bảo tồn Vishnu có ba vợ; họ liên tục cãi nhau; do đó, cuối cùng Vishnu chỉ giữ lại bà vợ Lakshmi, tặng Ganga cho Shiva và Saraswati cho Brahma.
Kỷ nguyên Gupta, điêu khắc gốm sứ về thần Ganga được tìm thấy tại Ahichchhatra, UP, hiện đang được giữ tại bảo tàng Quốc gia tại New Delhi.
Theo kể lại của sử thi Hindu Mahabharata thì các vị thần Vasu, do bị Vashishta nguyền rủa nên đã xin Ganga hãy làm mẹ của họ. Ganga tái sinh và trở thành vợ vua Santanu với một điều kiện rằng không được vì bất kỳ điều gì mà Ngài có thể chất vấn các hành động của thần, bằng không thần sẽ rời bỏ Ngài. Bảy vị thần Vasu đã lần lượt được sinh ra dưới lốt những đứa con họ; thần Ganga dìm chúng xuống dòng nước của nàng để giải thoát chúng khỏi các loại hình phạt, còn vị vua thì không hề phản đối. Chỉ khi đứa trẻ thứ tám được sinh ra, nhà vua cuối cùng cũng chống lại hoàng hậu; do đó, thần Ganga đã bỏ đi. Vì thế, đứa trẻ thứ 8, tái sinh của thần Dyaus, vẫn còn sống, bị cầm tù trong vòng luân hồi, và sau này được biết tới với tái sinh của thần là Bhishma (Devavrata), người sẽ trở thành một trong những nhân vật đáng kính nhất trong sử thi Mahābhārata.....
Sông Hằng (tiếng Hindi: गंगा, tiếng Bengal: গঙ্গা, tiếng Phạn: गङ्गा / Ganga, Hán-Việt: 恒河 / Hằng hà) là con sông quan trọng nhất của tiểu lục địa Ấn Độ. Sông Hằng dài 2.510 km bắt nguồn từ dãy Hymalaya của Bắc Trung Bộ Ấn Độ, chảy theo hướng Đông Nam qua Bangladesh và chảy vào vịnh Bengal. Tên của sông được đặt theo tên vị nữ thần Hindu Ganga.Sông Hằng có lưu vực rộng 907.000 km², một trong những khu vực phì nhiêu và có mật độ dân cao nhất thế giới.
Sông Hằng là sông linh thiêng nhất đối với Ấn Độ Giáo.Con sông là nguồn sống của hàng triệu người Ấn Độ sống dọc theo nó và phụ thuộc vào nó hàng ngày.Con sông có vai trò quan trọng về lịch sử với nhiều thủ đô, thủ phủ của các đế quốc trước đây (như Pataliputra, Kannauj,Kara, Kashi, Allahabad, Murshidabad, Munger, Baharampur, Kampilya, và Kolkata) nằm dọc theo bờ sông này.
Bản đồ cụ thể lưu vực sông Hằng (màu cam), sông Brahmaputra (màu tím) và sông Meghna (màu xanh)
Sông Hằng được xếp thứ 5 trên thế giới về mức độ ô nhiễm năm 2007. Sự ô nhiễm đe dọa không chỉ đối với con người mà còn hơn 140 loài cá, 90 loài lưỡng cư và cá heo sông Hằng.Chương trình Hành động sông Hằng với mục tiêu nhằm cải thiện tình trạng ô nhiễm môi trường của sông hầu như thất bại hoàn toàn, do thiếu chuyên môn kỹ thuật, thiếu quy hoạch môi trường tốt, và thiếu sự hỗ trợ của các chức sắc tôn giáo.
Những người dân tộc Hindu, dân tộc chiếm đa số trong dân số Ấn Độ, xem sông Hằng là một dòng sông thiêng: Ganga là con gái của thần núi Himavan hay Himalaya. Theo tín ngưỡng Hindu, tắm trên sông Hằng được xem là gột rửa mọi tội lỗi, và nước sông được sử dụng rộng rãi trong các nghi lễ thờ cúng. Uống nước sông Hằng trước khi chết là một điềm lành và nhiều người Hindu đã yêu cầu được hỏa thiêu dọc hai bên sông Hằng và lấy tro thiêu của họ rải lên dòng sông.
Những người hành hương Hindu hành hương đến các thành phố thánh Varanasi, nơi các nghi lễ tôn giáo thường được cử hành; Haridwar được tôn sùng vì nó là nơi sông Hằng rời dãy Himalaya; còn Allahabad, nơi dòng sông Saraswati huyền thoại được người ta tin là chảy vào sông Hằng. Mỗi 12 năm, một lễ hội Purna Kumbha (Vạc Đầy) được tổ chức ở Haridwar và Allahabad mà trong các lễ hội này hàng triệu người đến để tắm trong sông Hằng. Những người hành hương cũng đến các địa điểm linh thiêng khác gần các thượng nguồn sông Hằng, bao gồm đền thờ dưới núi băng Gangotri.http://vi.wikipedia.org/).
Shantanu là hậu duệ của Puru người con ngoại hôn nhưng có hiếu của Yayati, anh chàng ăn vụng bị đổ bể đã nói ở trên. Buổi chiều nọ, Pratipa, thân phụ của Shantanu ngồi cầu nguyện bên bờ sông Hằng. Một vị nữ Thần hiện lên từ bọt nước, y hệt như nữ thần Aphrodite (Venus – Vệ Nữ) trong huyền thoại Hy Lạp-La Mã. Nàng đến ngồi trên đùi phải của nhà Vua và yêu cầu nhà Vua lấy nàng. Ông từ chối viện cớ đùi phải là chỗ ngồi của một nàng dâu chứ không phải của một người tình. Và ông chấp nhận để người con  trai sẽ sanh ra của ông (là Shantanu), lấy nàng.
Nữ thần chính là Ganga, Thần sông Hằng, một phần của búi tóc của Shiva, như chúng ta đã được biết trong phần một của loạt bài. Thật ra, đầu mối của câu chuyện bắt đầu từ trước đó ít lâu, khi Ganga đến triều kiến Brahma. Một cơn gió nổi lên làm tung váy của Ganga. Chư Thần và chư Tiên đều ngoảnh mặt nhìn sang chỗ khác, ngoại trừ Mahabhisha, một vị Vua mới thoát vòng luân hồi lên được cửa Trời. Mahabisha bị phạt phải đầu thai trở lại, nhưng xin được đầu thai làm … chồng Ganga ! Một chủng tử dục vọng khởi lên là biển dục tràn dâng không gì ngăn nổi vậy. Mahabisha đầu thai làm con Pratika, tức Shantanu, vị hoàng tử đã được hứa hôn với Ganga. Đồng thời, sẵn dịp xuống dương trần, Ganga cũng hứa giúp cho 7 vị Thần bị tội phải đi đầu thai, sớm được siêu thoát. Phương thức được thỏa thuận là : Ganga sẽ cho các vị này mượn tử cung của mình để đầu thai, và sẽ giết họ đi ngay khi mới sanh. Một người con cuối cùng sẽ không bị giết để đánh dấu cuộc tình tương lai với Shantanu, nhưng người con ấy sẽ không có hậu duệ.  
Mọi chuyện được an bài ổn thỏa. Shantanu lớn lên, đi dạo bên bờ sông Hằng, thấy một Nữ Thần tuyệt đẹp hiện lên từ bọt nước (Venus !), yêu nàng như điếu đổ, v.v… Ganga đặt một điều kiện là Shantanu không được thắc mắc hay phản đối trước bất kỳ việc gì nàng làm. Như dự liệu, Ganga mang thai, sanh con và giết ngay đứa trẻ sơ sinh, rồi vứt nó xuống sông mà nói : « Đây, ta làm phúc cho ngươi ! ». Bảy lần như vậy. Shantanu không dám thắc mắc, phản đối. Đến lần thứ tám, ông không chịu đựng nổi nữa, và kêu lên : « đừng giết con của chúng ta ! » Ganga tuyên bố đứa trẻ sẽ sống nhưng Shantanu đã bội ước, nên nàng phải đem con quay về Trời. Đứa bé tên là Bhishma, một nhân vật toàn hảo, mang những đức tính tốt nhất của bảy vị Thần đã được Ganga giúp. Bhishma ở với mẹ một thời gian rồi quay về sống với cha. Bhishma sẽ là vị Tướng Tổng Tư Lệnh của quân đội Kaurava sau này.
Shantanu ở lại dương trần một mình, và ít lâu sau, mê Satyavati, cô công chúa hôi mùi cá nay đã trở thành thơm như … mít ( !) nhờ ăn nằm với vị Đạo Sĩ. Tuy nhiên, cha nuôi của Satyavati, tức người thủ lãnh ngư phủ, không chịu gả cô nàng cho Shantanu. Lý do, Shantanu đã có người thừa kế. Ông  ngư phủ nọ muốn  con của Satyavati sau này sẽ trở thành Vua, chứ không mãi mãi là loại thứ dân « trên răng dưới dế » như ông. Shantanu giao cho Bhishma đi thương lượng xem có thể thỏa hiệp được cách nào hay không ? Ở đây chúng ta thấy một trường hợp thường dân làm khó dễ Vua Chúa ... Bhishma là bậc đại hiếu. Ông chấp nhận từ bỏ quyền thừa kế để con của Satyavati được làm Vua kế ngôi cha mình. Ngư phủ vẫn không chịu, và đòi Bhishma phải thề sẽ không có con để chắc chắn sau này không có vấn đề tranh dành với hậu duệ của Satyavati. Bhishma thương cha, nên cũng nhận lời. Thế là một cách vô tình, ông đã thực thi lời giao ước của Ganga, mẹ ông, với bảy vị Thần bị phạt đi đầu thai đã như đã nói ở trên : đứa con thứ tám, là ông, sẽ không bị giết, nhưng không được có con. Bhishma được chư Thần tán dương, cho muôn ngàn cánh hoa rơi xuống quanh ông, và cho ông được đặc quyền muốn chết lúc nào cũng được, đồng thời có thể chọn kẻ sẽ giết mình. Chúng ta cũng nhận ra mưu trí của Shantanu, đẩy Bhishma đi thương lượng việc hôn nhân của mình để Bhishma « tự giác » hy sinh mà không cần mình phải đòi hỏi ! " ( http://nguyen.hoai.van.pagesperso-orange.fr/ ).
Lễ hội tắm Sông Hằng ở Ấn Độ.

Do trận chiến kéo dài 12 ngày đêm liên tục trên trời, tương đương với 12 năm dưới mặt đất. Trong tâm thức người Ấn Độ thì những giọt trường sinh đã mang lại điều linh thiêng cho bốn vùng đất trên và người Hindu giáo đã kỉ niệm ngày lễ này 12 năm một lần, luân phiên tại bốn địa điểm. Nếu tính như vậy thì cứ 3 năm tại Ấn Độ lại diễn ra lễ Kumbh Mela. Theo tính toán chiêm tinh của người Ấn thì lễ hội Kumbh Mela được tổ chức 12 năm một lần và bắt đầu từ ngày Makar Sankranti. Thời điểm mà mặt trăng, mặt trời và sao mộc Capricorn nhập vào cung thứ nhất của hoàng đạo. Các cấu hình trên Makar Sankranti chiêm tinh gọi là “ Kumbha Snana yoga” và được coi là đặc biệt tốt lành. Người Hindu tin rằng việc thông quan từ trái đất đến các hành tinh cao hơn mở cửa vào lúc đó, do đó cho phép các linh hồn dễ dàng có thể đạt được các thiên thể thế giới. Đó cũng là lý do tại sao lễ hội Kumbh Mela lại phổ biến trong mọi tầng lớp nhân dân. Năm 2010 Makar Sankranti rơi vào ngày 14 tháng 1 ở Haridwar, một thành phố nhỏ tràn ngập các thánh đường nằm ở chân dặng núi  Himalaya, nơi con sông Hằng bắt nguồn và lễ hội sẽ kết thúc vào 28-4. Nhiệt độ hạ xuống đến 35 độ F vào tối 13, nhưng người tắm là không nản lòng. Qua nửa đêm, hàng ngàn bắt đầu bước vào nơi hợp lưu của ba con sông, ngâm mình trong nước lạnh như đá. Lớn tiếng hô vang "Bolo Mai Ganga ki jai (tất cả các vinh quang về cho Mẹ Ganga)" . Tràn ngập không khí đêm là những người hành hương đang rửa sạch nghiệp xấu của họ. Họ đến từ khu vực tắm quấn trong chăn và run rẩy vì lạnh. Tuy nhiên khi họ đi ra khỏi nước, hàng ngàn người khác  liên tục hô "Bolo Mai Ganga ki jai" và bước xuống sông.

Lúc bình minh, bầu trời đỏ và mặt trời lên  một đám đông gồm 5.000.000 người đang từ từ tiến về phía Sangam. Từ trung tâm hàng đoàn người thực hiện một cuộc diễu hành tuyệt vời công bố bắt đầu chính thức của Mela Kumbha. Ban nhạc chơi, mọi người nhảy múa trong hân hoan, và lá cờ và biểu ngữ đầy màu sắc bay trên đám đông.
Người đứng đầu rước long thần. Những người đàn ông thánh tham gia vào lễ hội  như một việc tìm kiếm sự cân bằng. Họ hy vọng thoát khỏi đau khổ và thực hành khổ hạnh như đời sống độc thân hoàn toàn và không tích lũy của cải vật chất. Vì vậy, họ được gọi là liberationists. Cơ thể của họ được bao bọc trong đống tro tàn rồi họ xuống khu vực tắm. Bước vào nước trong sự hỗn loạn, thổi conchshells và hát "Shiva ki jai, Ganga ki jai", họ khoát nước lên và chơi giống như trẻ em, các trẻ em của sông Hằng.
Tiếp đến vairagis Vaisnava, hành khất lang thang, những vị thánh sống một cuộc đời khổ hạnh. Sau đó, đến các giáo phái khác, vô số các vị tu sĩ mặc áo vải màu nghệ tây cùng diễu hành. Mỗi lần một lượt tắm trong Sangam.
Mỗi sáng trên các bậc làm từ đá cẩm thạch trắng( Gát), các tu sĩ tiến hành ngi lễ cúng tế dòng sông. Thấp hơn một chút các tín đồ đặt những chiếc cốc nhỏ làm bằng lá đa chất đầy hoa và nến, có người thì đổ sữa xuống dòng sông…
Những người đầu tiên thực hiện nghi thức tắm sông Hằng là hàng trăm tu sĩ khổ hạnh ở trần ( còn gọi là các Naga sadhus), sống đơn độc và thiền trong các vùng rừng núi. Họ được người Hindu tôn vinh là đại diện cho các thánh thần trên mặt đất vì sự hy sinh bản thân và chối bỏ sống trần tục vật chất. Họ chị xuất hiện vào ngày Kumbh Mela, vào ngày này thì họ sẽ ở trần, bôi tro lên mình và sau đó đứng ngập trong nước đọc những câu thần chú, những câu kinh hay luyện Yoga. Ngoài ra, có hàng chục người nước ngoài tham gia nghi thức tại sông Hằng.
Ở những nơi khác những người Hindu sùng đạo cầu nguyện trên bờ sông Hằng cùng với những người thân của họ trong lễ hội Kumbh Mela ở Haridwar.
Các sự kiện chính của lễ hội là nghi thức tắm rửa tại các ngân hàng của các sông trong bất cứ thị trấn được tổ chức. Nasik đã đăng ký khách truy cập tối đa 75 triệu. Các hoạt động khác bao gồm các cuộc thảo luận tôn giáo, ca hát đạo đức, ăn uống  giữa mọi người với nhau,....  Hàng ngàn con người thánh thiện và phụ nữ tham dự, Một số người được gọi là naga sanyasis, có thể không mặc quần áo ngay cả trong mùa đông khắc nghiệt.
 2. Phần hội

Các tín đồ đạo Hindu rất coi trọng lễ hội hành hương tắm gội để “rửa sạch tội lỗi” của mình trong dòng sông Ganga. Quy định về thời gian, địa điểm tiến hành lễ hội này cũng phức tạp. Lễ hội này được chia thành nhiều loại gồm Puma Kumb Mela, Ardh và Maha.
            Puma Kumb Mela - tạm gọi là lễ hội hoàn chỉnh được tiến hành ba năm/lần, lần lượt tại bốn địa điểm như Allahabad ở bang Uttar Pradesh, Haridwwar và Uijain ở bang Madhya Pradesh; và Nashik ở bang Maharasshtra, tùy thuộc vào sự tính toán của các nhà chiêm tinh về vị trí của hành tinh và Mặt Trời. Lễ hội Puma được tiến hành tại Haridwar kéo dài suốt ba tháng, từ lễ hội Makan Sankranti được tổ chức vào ngày 14/1 và sẽ kết thúc với lễ hội Shak Purnima Snan vào ngày 28/4 tới.
            Mahamaham là Mela Hindu Kumb lễ hội kỷ niệm 12 năm trong bể Mahamaham nằm ở thị trấn miền Nam Ấn Độ Kumbakonam trong Tamil Nadu , Ấn Độ . Ấn giáo xem xét tham gia một nhúng thánh tại bể Mahamaham trên ngày của Mahamaham là thiêng liêng. Mahamaham cuối cùng được tổ chức vào ngày 06 tháng ba năm 2004, với những người từ các nơi thánh nhúng trong bể Mahamaham. Kumbh Mahamaham tiếp theo sẽ được tổ chức vào năm 2016. Mặc dù Ardh Kumbh Mela nhỏ hơn lễ hội Kumbh Mela, việc chuẩn bị hậu cần cũng đòi hỏi quy mô rất lớn. Việc đảm bảo đồ ăn, nước uống và nơi ở cho những người hành hương là mối lo chính của giới chức địa phương.
Khoảng 50.000 lều và 25.000 toilet được dựng lên trên khu vực 80 km2 trên bờ sông Hằng. Để đề phòng các sự cố tai nạn và tấn công khủng bố có thể xảy ra, hơn 50 đại đội cảnh sát dự bị trung ương và cảnh sát địa phương được triển khai để bảo đảm an ninh trong thời gian diễn ra lễ hội.
            Những người hành hương bất chấp cái lạnh giá buổi sớm đổ về nơi giao của sông Hằng, Yamuna và con sông huyền thoại Saraswati để gột rửa tội lỗi.
Giai đoạn tắm sông chính kéo dài 6 ngày, tùy thuộc vào vị trí của các vì sao . Trong ngày đầu tiên (3/1), gần 10 triệu người, dẫn đầu là những nhân vật linh thiêng bôi tro và không mặc quần áo, ngâm mình trên sông. Tín đồ Hindu tin rắng tắm sông còn là sự kết thúc của một quá trình chuyển kiếp.
Trong thời gian diễn ra lễ hội Maha vào năm 2001 tại Allahabad có tới 60 triệu người hành hương tham gia - đạt kỷ lục thế giới về số lượng người dự một lễ hội trong lịch sử thế giới. Lễ hội Kumbh thu hút đông đảo người đến tham dự. Từ trung tuần tháng Giêng khi lễ hội bắt đầu, có tới 40 triệu người đã đổ về Haridwar, một thị trấn có rất nhiều đền thờ và lễ hội sẽ kết thúc vào cuối tháng Tư. Để thực hiện lễ hội này một  ban tổ chức lớn đã được thành lập  để cung cấp nơi ăn chốn ở cho khách hành hương để hoạch định và thi hành các kế hoạch phục vụ cho lễ hội. Đây là một công tác quy mô có sự tham gia của các lực lượng an ninh để lo liệu các vấn đề như an ninh, vệ sinh, các trạm y tế, dịch vụ cung cấp nước, điện vân vân …
Lễ hội được coi như cuộc tụ họp tôn giáo lớn nhất thế giới, thu hút hơn 40 triệu người hành hương kể từ khi khởi sự vào trung tuần tháng Giêng. Nghi thức tắm sông Hằng đánh dấu cao điểm của lễ hội Kumbh Mela của Ấn Độ Giáo kéo dài đến ba tháng. Ban tổ chức ước tính có hơn tám triệu người thực hiện nghi thức tắm ở Sông Hằng hôm Thứ Tư trên một khúc sông dài 15 kilomet. Một số khách hành hương thích đến Mela Kumbha vào ban ngày tại các phòng tắm thiêng liêng lớn như Makar Sankranti và sau đó trở về nhà, trong khi những người khác dựng trại và ở lại cho đến hết lễ hội như một kỳ nghỉ gia đình. Lễ hội Kumbh Mela vẫn được mô tả là một cơ hội thể hiện lòng mộ đạo độc nhất vô nhị trên thế giới về tầm mức cũng như về mầu sắc. Những người theo đạo Hindu tin rằng tắm trên sông Hằng dài 2.510km được xem là gột rửa mọi tội lỗi, và nước sông được sử dụng rộng rãi trong các nghi lễ thờ cúng.  Cứ 12 năm, một lễ hội Purna Kumbha (Vạc Đầy) được tổ chức ở Haridwar và Allahabad mà trong các lễ hội này hàng triệu người đến để tắm trong sông Hằng. Những người hành hương cũng đến các địa điểm linh thiêng khác gần các thượng nguồn sông Hằng, bao gồm đền thờ dưới núi băng Gangotri. 
Tại thị trấn Haridwar ở Bắc Ấn Độ, hằng triệu tín đồ Ấn Độ Giáo đã thực hiện nghi thức tắm trên Sông Hằng vào ngày chót trong 4 ngày được coi là lành nhất trong lễ hội kéo dài ba tháng qua. Thứ Tư là ngày chót trong bốn ngày lành tháng tốt cho nghi thức nhúng mình dưới nước dòng sông được các tín đồ Hin-đu coi là linh thiêng này.
Những người dân tộc Hindu, dân tộc chiếm đa số trong dân số Ấn Độ, xem sông Hằng là một dòng sông thiêng: Ganga là con gái của thần núi Himavan hay Himalaya. Theo tín ngưỡng Hindu, tắm trên sông Hằng được xem là gột rửa mọi tội lỗi, và nước sông được sử dụng rộng rãi trong các nghi lễ thờ cúng. Uống nước sông Hằng trước khi chết là một điềm lành và nhiều người Hindu đã yêu cầu được hỏa thiêu dọc hai bên sông Hằng và lấy tro thiêu của họ rải lên dòng sông. Người theo Ấn Độ Giáo tin rằng tắm tại Sông Hằng sẽ rửa sạch tội lỗi của họ và giải phóng họ khỏi vòng luân hồi.
Sau khi trầm mình trong dòng nước được cho là linh thiêng của sông Hằng, nhiều người hành hương đạo Hindu sẽ lấy nước cho vào bình hoặc chai lọ để mang về cho người thân hoặc bạn bè, những người vì lí do gì đó không thể tham gia sự kiện tôn giáo này. Một số người còn tưới nước trên quần áo. Khoảng 1 triệu người đã tham dự lễ tắm sông Hằng trong hai ngày đầu tiên của lễ hội Kumbh Mela. Ước tính đến khi kết thúc lễ hội sẽ có đến hàng chục triệu người tham gia sự kiện này.Điểm nổi bật chính cho hầu hết các khách hành hương trong một Mela Kumbha là việc chấp hành tắm thiêng liêng tại Sangam. Người ta nói rằng tắm một trong những con sông thiêng liêng đã thanh lọc thì hiệu ứng được tăng lên 100 lần. Hơn nữa, người ta nói rằng khi một người tắm ở Sangam trong Mela Kumbha thì sẽ tăng tới 1000 lần
Có đến hàng triệu người. Một số đến trên các chuyến tàu đông đúc thực hiện công suất gấp năm lần ngày bình thường. Một số đến bằng xe buýt, bằng xe hơi, một số xe bò, và những người khác cưỡi trên ngựa, lạc đà, và thậm chí cả voi. Các máy bay điều lệ tư nhân giàu có, nổi tiếng và máy bay trực thăng mang theo các thiết bị cắm trại. Sau khi tới họ dựng trại dọc trên bờ sông Hằng ở Allahabad để chào mừng lễ hội tâm linh lớn nhất từng được tổ chức trong lịch sử của thế giới, Kumbha Mela. Kumbha Mela đã đạt được danh tiếng quốc tế là "hành động lớn nhất thế giới của đức tin." Khách hành hương đến thánh sự kiện này với niềm tin to lớn và với số lượng áp đảo. Đức tin là điều quan trọng nhất cho những người hành hương tại Kumbha Mela, họ có một niềm tin nào đó rất cao siêu. Để hiểu ý nghĩa của Mela Kumbha và các vai trò quan trọng là nó đóng vai trò trong tâm linh của Ấn Độ, thì chúng ta phải hiểu biết điều gì đó về sông Hằng thiêng liêng. Người mộ đạo tin rằng chỉ đơn giản bằng cách tắm ở sông Hằng là một trong những giải thoát khỏi tội lỗi quá khứ của họ (karma), và do đó hội đủ điều kiện để được giải thoát khỏi vòng sanh tử. Tất nhiên người ta nói rằng một lối sống tinh khiết cũng được yêu cầu sau khi tắm rửa, nếu không một lần nữa sẽ bị gánh nặng bởi nghiệp ứng. Các khách hành hương đến từ tất cả các tầng lớp xã hội, đi du lịch xa và chịu đựng nhiều khó chịu về thể chất, chẳng hạn như ngủ trong trong thời tiết gần như đóng băng. Họ trải qua những khó khăn này chỉ để nhận được lợi ích của tắm trong dòng sông thiêng liêng tại Kumbha Mela..
Lễ hội Kumbha Mela đã được tổ chức từ rất lâu và càng ngày số người tham dự lễ hội ngày càng đông. Năm 1977, số lượng khách hành hương tham dự Kumbha Mela lên đến 15 triệu.  Đến năm 1989, sự tham gia trong phạm vi của 29 triệu người, gần gấp đôi kỷ lục trước đó... Năm 2001, Kumbh Mela được tổ chức ở Prayag, aka Allahabad. Chính phủ Ấn Độ ước tính rằng khoảng 70 triệu người đến lễ hội này ở phía bắc Ấn Độ để tắm trong sông Hằng linh thiêng, nơi nó đáp ứng với cũng thánh sông Yamuna. Tắm ở vùng nước thánh tại thời điểm này tốt lành để rửa sạch nghiệp của bạn nợ. Vì vậy, nó có nghĩa là một phím tắt cho tinh thần giải phóng (moksha), giải thoát khỏi vòng sanh tử.. Tín đồ đã tụ tập trên bờ của sông Godavari snaan maha hoặc tắm thánh. Hơn 30.000 khách hành hương đã được tổ chức lại bởi các rào chắn trong một đường phố hẹp dẫn đến Ramkund , một điểm thánh, vì vậy các sadhus có thể tắm đầu tiên nghi lễ. Năm 2007 hơn 30 triệu người truy cập Ardh ​​Kumbh Mela ở Prayag . Năm 2010 Haridwar tổ chức Purna Kumbha mela từ Makar Sankranti (14 tháng 1 năm 2010) Shakh Purnima SNaN (28 Tháng 4, 2010). Hàng triệu người hành hương Hindu dự mela. Ngày 14 tháng 4 năm 2010, khoảng 10 triệu người tắm trong sông Hằng. Theo các quan chức vào giữa tháng Tư, khoảng 40 triệu người đã tắm kể từ 14 Tháng Một 2010. Hàng trăm người nước ngoài tham gia hành hương Ấn Độ trong lễ hội được cho là tập hợp tôn giáo lớn nhất trên thế giới.
Như một thành phố mọc lên dọc theo bờ sông trong Mela Kumbha được hoàn thành với thị trường, bệnh viện, và thậm chí cả một trại du lịch phục vụ du khách đến từ nước ngoài. Trại du lịch đã che chở hơn 1.000 du khách từ nước ngoài trong các lễ hội, nhất là từ châu Âu và Nam Mỹ. Một số các du khách đến từ nước ngoài chưa bao giờ đến Ấn Độ. Những người khác dường như cũng quen thuộc với những gì đã xảy ra ở Ấn Độ. Tất cả các nhu cầu cho sinh hoạt của các du khách nước ngoài cũng như người bản địa đều được chính quyền chu cấp khá đầy đủ để phục vụ cho lễ hội. Năm 2010 chính phủ Ấn Độ đã dành hơn 8 triệu đô la về tổ chức sơ bộ cho Mela Kumbha. Theo báo cáo của tờ báo quốc gia, các thỏa thuận cung cấp 5.000 lít nước tinh khiết uống mỗi phút, 8.000 xe buýt đưa đón khách hành hương trong và ngoài của khu vực lễ hội, có tới 16.000 cửa hàng và 6.000 cực cung cấp thiết bị điện; 6.000 xe quét và vệ sinh nhân viên làm việc trên để duy trì các tiêu chuẩn về sức khỏe, 9 cây cầu phao kéo dài sông Hằng khoảng 20.000 cảnh sát, lính cứu hỏa, và Lực lượng Cảnh sát Ấn Độ quốc gia, người giữ một buổi cầu nguyện liên tục tại các điểm kiểm tra và đóng mạch TV bảo vệ chống lại tắc nghẽn giao thông và khác có thể bùng phát hoặc rối loạn, và 100 bác sĩ và y tá gọi tất cả các lần tại các trạm hỗ trợ y tế.
Về vấn đề giải trí cho mọi người thì trong một số lều trại lớn chiếu  phim Ấn Độ và các nhóm múa cổ điển có trang phục kỳ lạ biểu diễn thu hút khán giả lớn. Trong một số lều trại  khác có màn hình xây dựng minh họa những câu chuyện từ sử thi Ấn Độ cổ đại như Ramayana và Mahabharata. Có rất nhiều hoạt động thú vị mà khách hành hương có thể tham dự.

Về các dụng cụ sinh hoạt cho khách hành hương thì tại các khu vực thị trường tất cả những nhu cầu cần thiết và xa xỉ của Kumbha Mela để bán. Trong một nơi trái cây và rau quả tươi đã có sẵn. Ở một nơi khác, chăn len, bán rất chạy, được chất đống trong stacks lớn dễ dàng lựa chọn. Dọc theo các đường phố chính Gypsies lây lan sản phẩm của họ bao gồm cả hình dạng và kích cỡ khác nhau của nồi đồng, bát, hạt cho thiền định, nước hoa kỳ lạ hương như kastori  và Chandan  và thậm chí cả con hổ có móng vuốt bằng vàng.
Về thực phẩm trong mùa lễ thì có một điều cũng khá thú vị là tất cả thực phẩm trong suốt lễ hội ăn chay. Không có một dấu vết nào là đồ mặn như cá hoặc trứng được tìm thấy trong trại nào hoặc bất kỳ nơi ăn uống công cộng nào.
Nhiều thầy bói thần bí thiết lập cửa hàng dọc theo sông Hằng cung cấp cho người qua đường một cái nhìn vào tương lai. Chiêm tinh học và thuật xem tay là khoa học truyền thống ở Ấn Độ, nhưng nhiều người lợi dụng sự cả tin của công chúng để kiếm tiền nhất là nhân dịp lễ hội lớn như thế này.

Về phương tiện vận chuyển trong suốt lễ hội thì lạc đà được sử nhiều nhất vì trong cát mềm, xe hơi, xe tải, và thậm chí cả xe ngựa cũng dễ bị mắc kẹt vì vậy lạc đà, một con thú khỏe mạnh của gánh nặng, được sử dụng ở Ấn Độ nhiều thế kỷ để vận chuyển hàng hóa khoảng cách dài và thông qua các địa hình khó khăn, là người anh hùng thầm lặng của Kumbha Mela  vì tất cả các đồ vật, củi, lều bạt, thực phẩm đều phải sử dụng đến lạc đà. ( http://nguyenhuepy.blogspot.com/ ).
Xin theo dõi tiếp bài 11. dienbatn giới thiệu.

Đăng nhận xét

Vui lòng không Spam

 
Top
cho tat ca link nofollow