LƯỢC KHẢO VỀ CÁC HỆ PHÁI HUYỀN MÔN NAM TÔNG.
PHẦN 2.NHỮNG HỆ PHÁI CƠ BẢN CỦA HUYỀN MÔN NAM TÔNG.
TRUY TÌM NGUỒN GỐC PHẬT QUYỀN.
( Tiếp theo )
TRUY TÌM NGUỒN GỐC PHẬT QUYỀN.
( Tiếp theo )
CẢNH BÁO : Các tài liệu trong loạt bài này các bạn không nên tự luyện tập nếu không có chân sư hướng dẫn. dienbatn không chịu trách nhiệm về hành vi tự ý luyện tập của các bạn nếu có hậu quả đáng tiếc. dienbatn.
Theo chân những đoàn quân của các Chúa Nguyễn, những nhà truyền giáo, các Pháp sư, Phù thủy từ miền Bắc Việt Nam mang theo những bí thuật Huyền môn của mình kết hợp với Huyền môn bản địa mà tạo ra những trang sử huy hoàng của giới Huyền môn Việt Nam.
Như vậy ta thấy rằng , kể từ 1558, khi Chúa Nguyễn Hoàng bắt đầu Nam tiến , Phật pháp và Huyền môn Việt Nam đã vận động được một vòng tròn hoàn chỉnh .
Do tiếp nhận những kiến thức của rất nhiều vùng địa lý, của nhiều dân tộc mà Huyền môn có nhiều chi phái khác nhau , mang nhiều tên gọi khác nhau. Tuy nhiên ta có thể thấy về Phật quyền và Thất sơn thần quyền có nguồn gốc xuất xứ khác nhau nhưng có những điểm chung về nguyên tắc cơ bản như sau :
1/ Tuy là một môn võ có những đòn thế siêu đẳng, nhưng Phật quyền và Thất sơn thần quyền các môn phái này chủ yếu là để tự vệ ,không được đánh người ,không được ngạo mạn ỷ lại hiếp đáp người cô thế .Luật của các phái cũng hết sức nghiêm minh ,ai vào thọ giáo phải đứng trước tổ thầy đọc các lời thề về giử gìn đạo đức và tôn kính Trời Phật Thánh Thần , rất nguy hiểm khi có đệ tử nào vi phạm thì khó tránh khỏi kiếp nạn do chính mình chọn ra. Ngoài ra còn phải kiêng cử trong ăn uống tuỳ theo môn phái bùa có quy định, như : Chó ,Trâu ,Mèo là phải kỵ tuyệt đối , còn nhiều thứ khác phải kiêng kỵ tuỳ theo môn phái của mình.
2/ Trước khi tập thì môn sinh đều phải cầu Thầy Tổ về trợ giúp. các Thày Tổ ở đây với mỗi một môn sinh là khác nhau, không ai giống ai cả. Theo hiểu biết của dienbatn thì những Thày Tổ này là những vị Thày Tổ từ nhiều căn kiếp trước đã từng dạy cho người đó, nay cầu về, các ngài tiếp tục dạy hay trực tiếp phát công , phát ra những thế đánh của bản môn Thầy Tổ đó .
3/ Trong Phật quyền và Thất sơn thần quyền : Quan trọng nhất vẫn không phải học quyền mà là .... học Đạo . Trong việc học Đạo, ngoài các Giáo lý nhà Phật ra, môn sinh đều có những bài tập về đọc chú , luyện khí, luyện gồng, luyện một số công năng đặc di khác .
4/ Theo các vị sư phụ của dienbatn truyền lại, Phật quyền và Thất sơn thần quyền ngày xưa có tới 7 nhánh : Tuy cùng là thờ các vị chư Phật, chư Bồ tát nhưng 7 nhánh này chia ra luyện chuyên sâu theo từng vị Phật mà chi nhánh đó nhận làm Tổ . Các nhánh đó lần lượt nhận các chư Phật sau làm Thầy Tổ :
* Đức Di Lặc Phật Vương,
* Đức Tây phương cực lạc A Di Đà Phật.
* Đức Phật Quán thế âm Bồ tát.
* Đức Đại Phổ hiền Bồ tát.
* Đức Đại Thế chí Bồ tát.
* Đức Phật mẫu Chuẩn đề vương Bồ tát.
* Đức Bồ tát tôn giả Mục Kiền Liên.
Trải qua nhiều thăng trầm của thời gian, ngày nay ta chỉ còn thấy nhiều nhất là hai nhánh võ phái nhận Thày Tổ là : Đức Phật Quán thế âm Bồ tát và Đức Phật mẫu Chuẩn đề vương Bồ tát. Riêng phái nhận Đức Đại Thế chí Bồ tát chỉ còn tại một vài nơi hẻo lánh và có môn quy rất nghiêm ngặt hầu như những người lạ khó xâm nhập vào được.
5/ Cũng theo những gì dienbatn được truyền lại : Khi điểm Đạo cho học trò Phật quyền và Thất sơn thần quyền , các vị chân sư phải truyền dẫn nội công , khai mở 7 luân xa :
" Có một cấp bậc điểm đạo tối cao siêu đẳng mà người môn đồ khi đã đạt tới trình độ đó không chỉ được tạm thời giải thoát khỏi thể xác vật chất để chứng minh sự tồn tại của linh hồn, mà còn được đưa lên những cảnh giới thanh cao nhất, hòa nhập hoàn toàn với đại thể của vũ trụ. Kinh nghiệm huyền diệu đó giúp phá vỡ sự cố chấp hữu hạn của con người và do đó mới có thể tiếp xúc với sự hiện hữu chân thật trường cửu của hết thảy mọi sinh thể. Trong một thời gian ngắn, người môn đồ được cảm thông trong im lặng và một cách thần diệu với thực thể của muôn loài; sự tiếp xúc tuy ngắn ngủi, nhưng giây phút cảm thông huyền diệu đó cũng đủ làm cho người ta thay đổi hoàn toàn quan điểm đối với cuộc đời. Người môn đồ ấy đã chia sẻ một phần cái ân huệ thiêng liêng nhất mà con người có thể nhận được. Người ấy xem như đã khám phá được cái ánh sáng huyền diệu thiêng liêng, là cái tinh hoa rốt ráo vi diệu của bản thể, mà so với nó thì thể xác vật chất này chỉ là giả tạm và vô nghĩa. Vì thế, người môn đồ sau khi được điểm đạo đã thật sự được hồi sinh trở lại, theo đúng ý nghĩa cao cả nhất của danh từ này.
Thân ái - dienbatn .
Theo chân những đoàn quân của các Chúa Nguyễn, những nhà truyền giáo, các Pháp sư, Phù thủy từ miền Bắc Việt Nam mang theo những bí thuật Huyền môn của mình kết hợp với Huyền môn bản địa mà tạo ra những trang sử huy hoàng của giới Huyền môn Việt Nam.
Như vậy ta thấy rằng , kể từ 1558, khi Chúa Nguyễn Hoàng bắt đầu Nam tiến , Phật pháp và Huyền môn Việt Nam đã vận động được một vòng tròn hoàn chỉnh .
Do tiếp nhận những kiến thức của rất nhiều vùng địa lý, của nhiều dân tộc mà Huyền môn có nhiều chi phái khác nhau , mang nhiều tên gọi khác nhau. Tuy nhiên ta có thể thấy về Phật quyền và Thất sơn thần quyền có nguồn gốc xuất xứ khác nhau nhưng có những điểm chung về nguyên tắc cơ bản như sau :
1/ Tuy là một môn võ có những đòn thế siêu đẳng, nhưng Phật quyền và Thất sơn thần quyền các môn phái này chủ yếu là để tự vệ ,không được đánh người ,không được ngạo mạn ỷ lại hiếp đáp người cô thế .Luật của các phái cũng hết sức nghiêm minh ,ai vào thọ giáo phải đứng trước tổ thầy đọc các lời thề về giử gìn đạo đức và tôn kính Trời Phật Thánh Thần , rất nguy hiểm khi có đệ tử nào vi phạm thì khó tránh khỏi kiếp nạn do chính mình chọn ra. Ngoài ra còn phải kiêng cử trong ăn uống tuỳ theo môn phái bùa có quy định, như : Chó ,Trâu ,Mèo là phải kỵ tuyệt đối , còn nhiều thứ khác phải kiêng kỵ tuỳ theo môn phái của mình.
2/ Trước khi tập thì môn sinh đều phải cầu Thầy Tổ về trợ giúp. các Thày Tổ ở đây với mỗi một môn sinh là khác nhau, không ai giống ai cả. Theo hiểu biết của dienbatn thì những Thày Tổ này là những vị Thày Tổ từ nhiều căn kiếp trước đã từng dạy cho người đó, nay cầu về, các ngài tiếp tục dạy hay trực tiếp phát công , phát ra những thế đánh của bản môn Thầy Tổ đó .
3/ Trong Phật quyền và Thất sơn thần quyền : Quan trọng nhất vẫn không phải học quyền mà là .... học Đạo . Trong việc học Đạo, ngoài các Giáo lý nhà Phật ra, môn sinh đều có những bài tập về đọc chú , luyện khí, luyện gồng, luyện một số công năng đặc di khác .
4/ Theo các vị sư phụ của dienbatn truyền lại, Phật quyền và Thất sơn thần quyền ngày xưa có tới 7 nhánh : Tuy cùng là thờ các vị chư Phật, chư Bồ tát nhưng 7 nhánh này chia ra luyện chuyên sâu theo từng vị Phật mà chi nhánh đó nhận làm Tổ . Các nhánh đó lần lượt nhận các chư Phật sau làm Thầy Tổ :
* Đức Di Lặc Phật Vương,
* Đức Tây phương cực lạc A Di Đà Phật.
* Đức Phật Quán thế âm Bồ tát.
* Đức Đại Phổ hiền Bồ tát.
* Đức Đại Thế chí Bồ tát.
* Đức Phật mẫu Chuẩn đề vương Bồ tát.
* Đức Bồ tát tôn giả Mục Kiền Liên.
Trải qua nhiều thăng trầm của thời gian, ngày nay ta chỉ còn thấy nhiều nhất là hai nhánh võ phái nhận Thày Tổ là : Đức Phật Quán thế âm Bồ tát và Đức Phật mẫu Chuẩn đề vương Bồ tát. Riêng phái nhận Đức Đại Thế chí Bồ tát chỉ còn tại một vài nơi hẻo lánh và có môn quy rất nghiêm ngặt hầu như những người lạ khó xâm nhập vào được.
5/ Cũng theo những gì dienbatn được truyền lại : Khi điểm Đạo cho học trò Phật quyền và Thất sơn thần quyền , các vị chân sư phải truyền dẫn nội công , khai mở 7 luân xa :
1. Luân xa thứ Nhất: Muladhara chakra (sanskrit). Vị trí nằm giữa hậu môn và bộ phận sinh dục, tương đương với huyệt Hội Âm là hội hiệp các âm linh của châm cứu học. Nó được biểu hiện bằng một bông sen bốn cánh màu đỏ, chủng tự tiếng sanskrit của nó là LAM. Luồng hỏa hầu Kundalini nằm phục ở đây. khi thành tựu phép quán tưởng luân xa này, sẽ làm chủ được địa đại, tiêu trừ nghiệp quá khứ, biết được ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai, thọ hưởng niềm hoan lạc tự nhiên.
Ở đây Ngài A Di Đà làm chưởng Quản tiếp dẫn những giác linh, chơn linh, hương linh, vong linh về cảnh giới của Ngài, ngài cho xuất gia.
2. Luân xa thứ Hai: Svadhisthana chakra. Vị trí nằm dưới rốn chừng bốn ngón tay, tương đương với huyệt Đan Điền , biểu hiện bằng bông sen sáu cánh màu cam, chủng tự là VAM. Thành tựu phép quán tưởng luân xa này sẽ làm chủ được thủy đại và các giác quan, biết được cảnh Trung giới (monde astral).
Chưởng quản ở đây là ngài Cam Lồ Vương Như Lai, khi chúng ta đến cảnh giới nầy thì chúng ta sẽ được học phép thắng tất cả: Tham ái, giận hờn, ngã mạn, ganh tỵ và các phiền não khác đều được tiêu trừ. Vượt thoát tử thầncủa các cõi. lúc nầy chúng ta chứng quả thượng thừa của tầng hai nầy lảnh sắc lệnh lên tầng thứ ba.
3. Luân xa thứ Ba: Manipura chakra. Vị trí ở giữa rốn tương đương với huyệt Thần khuyết. Biểu hiện bằng bông sen mười cánh màu vàng, chủng tự là RAM. Chưởng quản ở đây là Ngài Ly Bố Úy Như Lai, ở đây Chúng ta học phép thành tựu phép làm chủ hỏa đại, không còn sợ lửa thiêu đốt, hoàn toàn thoát khỏi ngũ hành kim mộc thủy hỏa thổ. lúc nầy chúng ta chứng quả thượng thừa của tầng ba nầy lảnh sắc lệnh lên tầng thứ tư.
4. Luân xa thứ Tư: Anahata chakra. Vị trí ở giữa ngực, tương đương với huyệt Ðản trung. Biểu hiện bằng bông sen mười hai cánh màu xanh lá cây, chủng tự là YAM. Chưởng quản ở đây là Ngài Quảng Bác Thân Như Lai, ở đây ngài dạy chúng ta học phép Thành tựu làm chủ phong đại, tùy ý bay lượn trong không gian hoặc chui nhập vào thân người khác, đầy đủ đức tính của chư thiên và tình thương vũ trụ. lúc nầy chúng ta chứng quả thượng thừa của tầng bốn nầy lảnh sắc lệnh lên tầng thứ năm
5. Luân xa thứ Năm: Visuddha chakra. Vị trí ở ngay dưới cổ, tương đương với huyệt Thiên đột. Biểu hiện bằng bông sen mười sáu cánh màu xanh da trời. Chủng tự là HAM. Chưởng quản ở đây là ngài Diệu Sắc Thân Như Lai, ở đây chúng ta được học phép Thành tựu làm chủ không đại, thân thể không bao giờ tàn hoại, ngay cả khi thế gian bị tiêu diệt, đạt được trí huệ thông suốt tất cả kinh điển vô tự và ba thời: quá khứ, hiện tại, vị lai. lúc nầy chúng ta chứng quả thượng thừa của tầng năm nầy lảnh sắc lệnh lên tầng thứ sáu
6. Luân xa thứ Sáu: Ajna chakra. Vị trí ở giữa hai chân mày nơi mà huyền môn thường gọi là con mắt thứ ba, tương đương với huyệt Ấn đường. Biểu hiện là bông sen hai cánh màu xanh nước biển, chủng tự là A. Chưởng quản ở đây là Ngài Bảo Thắng Như Lai ở đây chúng ta được học phép trở thành người hoàn toàn giải thoát liền đắc cái trí bửu pháp tánh bực vô thượng. lúc nầy chúng ta chứng quả thượng thừa của tầng sáu nầy lảnh sắc lệnh lên tầng thứ bảy
7. Luân xa thứ Bảy: Sahasrara chakra. Vị trí ngay trên đỉnh đầu, tương đương với huyệt Bách hội. Biểu hiện bằng bông sen ngàn cánh màu tím, trắng, vàng. Chủng tự là OM. Khi luồng hoả hầu Kundalini chạy lên tới đây, Chưởng quản ở đây là Ngài Đa Bảo Như Lai , ở đây chúng ta được học phép trở thành một bậc giác ngộ giải thoát hoàn toàn. Hòa đồng Vũ Trụ gọi là Đạo. lúc nầy chúng ta chứng quả thượng thừa của tầng bảy nầy lảnh sắc lệnh ra ngoại Càn Khôn Vũ Trụ." Có một cấp bậc điểm đạo tối cao siêu đẳng mà người môn đồ khi đã đạt tới trình độ đó không chỉ được tạm thời giải thoát khỏi thể xác vật chất để chứng minh sự tồn tại của linh hồn, mà còn được đưa lên những cảnh giới thanh cao nhất, hòa nhập hoàn toàn với đại thể của vũ trụ. Kinh nghiệm huyền diệu đó giúp phá vỡ sự cố chấp hữu hạn của con người và do đó mới có thể tiếp xúc với sự hiện hữu chân thật trường cửu của hết thảy mọi sinh thể. Trong một thời gian ngắn, người môn đồ được cảm thông trong im lặng và một cách thần diệu với thực thể của muôn loài; sự tiếp xúc tuy ngắn ngủi, nhưng giây phút cảm thông huyền diệu đó cũng đủ làm cho người ta thay đổi hoàn toàn quan điểm đối với cuộc đời. Người môn đồ ấy đã chia sẻ một phần cái ân huệ thiêng liêng nhất mà con người có thể nhận được. Người ấy xem như đã khám phá được cái ánh sáng huyền diệu thiêng liêng, là cái tinh hoa rốt ráo vi diệu của bản thể, mà so với nó thì thể xác vật chất này chỉ là giả tạm và vô nghĩa. Vì thế, người môn đồ sau khi được điểm đạo đã thật sự được hồi sinh trở lại, theo đúng ý nghĩa cao cả nhất của danh từ này.
Như thế, cuộc điểm đạo là sự đạt tới một viễn cảnh mới của cuộc đời, cái viễn cảnh tâm linh mà nhân loại đã đánh mất trong thời dĩ vãng xa xăm, khi rơi từ “Thiên đàng” xuống cõi vật chất. Khoa huyền môn giúp ta thực hiện sự trở về nguồn cội ngay từ bên trong, và đưa ta đi tuần tự từ bước một đến sự giác ngộ hoàn toàn. Khoa huyền môn hé mở cho ta thấy trước hết là những cảnh giới tâm linh huyền bí vượt ngoài giới hạn nhận biết trong cõi vật chất của trần gian, và sau đó tiết lộ cho ta những điều huyền diệu rốt ráo và tính chất thiêng liêng của tâm thức con người. Khoa huyền môn giúp cho người môn đồ nhìn thấy được những cảnh giới dường như địa ngục âm ty để thử thách tâm trí và lòng kiên quyết, cũng như để người ấy được có dịp học hỏi và mở rộng tầm nhận thức. Kế đó, người môn đồ được nhìn thấy những cảnh giới Thiên đàng tốt đẹp để khuyến khích và ban ân huệ. Nếu khoa huyền môn vẫn phải dùng đến phương tiện đồng thiếp thì điều đó không có nghĩa là không còn phương pháp nào khác. Đó chỉ là một phương tiện được áp dụng, nhưng cảnh giới tâm linh có thể được đạt tới bằng nhiều phương cách khác nữa, và không cần phải áp dụng phương pháp xuất thần.
Tuy nhiên, lịch sử của nhân loại luôn luôn theo định luật chu kỳ, những gì đã từng xảy ra, sẽ tái diễn trở lại. Một lần nữa, con người đã trải qua một thời kỳ hỗn loạn và hắc ám, trong khi đó lại cảm thấy một sự băn khoăn bất mãn do nhu cầu tự nhiên của bản tính con người là muốn lặp lại sự giao tiếp với cảnh giới tâm linh huyền diệu huy hoàng. Bởi vậy, tôi hy vọng rằng những điều kiện sẽ có thể được tạo nên, những hoàn cảnh thuận tiện sẽ đến và những nhân vật đủ thẩm quyền và khả năng sẽ xuất hiện, để nhờ đó mà một lần nữa trên địa cầu này sẽ được tái lập tổ chức huyền môn, dưới những hình thức hoàn toàn mới mẻ tân kỳ, để cho được phù hợp, thích ứng với thời đại tân tiến hoàn toàn khác hẳn với thời đại cổ xưa. "
6/ " Những vị đạo đồ trong khoa huyền môn thời cổ phải long trọng tuyên thệ là không bao giờ tiết lộ những gì xảy ra bên trong thánh điện thâm nghiêm huyền bí. Ta nên nhớ rằng, dù sao thì lễ điểm đạo cũng chỉ được cử hành mỗi năm cho một số rất ít môn đồ. Sự hiểu biết giáo lý mật truyền không bao giờ được ban bố cho nhiều người cùng một lúc. Bởi lẽ đó mà không một nhà văn thời cổ nào đã đưa ra được một tường trình đầy đủ và mạch lạc về những gì được gọi là giáo lý huyền môn, vì các vị môn đồ luôn giữ đúng lời cam kết một cách chặt chẽ.
Những chân lý được truyền dạy trong các đạo viện huyền môn là do sự tiết lộ mà các đấng thánh nhân dành cho nhân loại từ lúc phát sinh những nền văn minh cổ xưa nhất, và nay giáo lý huyền môn cần được giữ gìn nguyên vẹn để duy trì sự tinh khiết của nó. Như thế, người ta hiểu tại sao khoa huyền môn được ẩn giấu cẩn mật và giữ gìn chặt chẽ ngoài tầm tay của kẻ thế nhân phàm tục.
Tại sao những vị đạo trưởng lại có một sự dè dặt vô cùng chặt chẽ như thế? Đó là vì những lý do mà chỉ có các ngài mới có thể biết được. Dù sao, các ngài hẳn là thấy cần phải loại những kẻ hoài nghi và bỡn cợt ra ngoài những kinh nghiệm thần bí dẫy đầy nguy hiểm cho tánh mạng của người thí sinh. Người ta không trao những viên ngọc quý cho kẻ tầm thường.
Ngoài ra, rất có thể là có nhiều người, vì không đủ sự chuẩn bị sẵn sàng cho một kinh nghiệm như thế, sẽ trở nên điên cuồng hoặc thiệt mạng sau cuộc thử thách. Bởi đó, lễ điểm đạo luôn luôn chỉ là đặc ân dành cho một số ít người xứng đáng. Nhiều người đã gõ cửa cầu xin điều đó ở các đền huyền môn nhưng vô ích. Những người khác, bị đặt dưới hàng loạt những cuộc thử thách sơ đẳng mỗi lúc một khó khăn hơn, không có đủ sự gan góc cần thiết để tiến xa hơn nữa, hoặc cảm thấy lòng ước muốn điểm đạo nguội bớt dần.
Về sau, sự sa đọa vật chất của con người đã làm cho các vị đạo trưởng chân chính của thời xưa dần dần biệt tích hoặc rút lui ra ngoài vòng thế tục, và thay chân các ngài là những kẻ phàm phu mê muội, làm hoen ố và hạ thấp khoa huyền môn cao cả. Những kẻ bất chính, có tham vọng đạt được những phép thần thông của bàng môn tả đạo, sau cùng đã chiếm ưu thế để giành quyền kiểm soát các đạo viện huyền môn ở Ai Cập và những nơi khác.
Những gì từ lúc nguyên thủy vốn là thiêng liêng, chỉ dành cho những người chọn lọc nhằm mục đích duy trì ngọn lửa thiêng tinh khiết của sự sống tâm linh cho được trường cửu trong nhân loại, đã lọt vào tay những kẻ tà tâm, buôn thần bán thánh. Đó là những sự kiện lịch sử, làm cho cái kho tàng tâm linh quí báu của nhân loại thời cổ xưa đã trở nên suy tàn. " -( Theo Ai Cập huyền bí ).
Chính vì vậy ngày xưa Thầy Tổ có truyền lại :
" Một đêm nọ Thày tôi đã dặn:
Này Chân sư , Pháp sư con nghe ta dạy,
Ấn tướng và Pháp chú - Là bí mật hiển vi.
Của Phật , Hiền, Thánh chúng.
Có cảm thì có ứng,
Và không thể giải thông.
Cũng không thể tạo khuôn,
Đệ tử muốn gia trì,
Hoặc truyền Đạo đại chúng.
Nên nhớ là lúc tập và lúc niệm,
Năng tinh tấn chuyên cần.
Và hành nơi vắng lặng.
Không cho ngoại Đạo niệm.
Bởi ấy sinh lòng tà,
Khinh khi hoặc khích nhiễu.
Đây là một nghiêm luật.
Đệ tử chiếu phụng hành . "
Những chân lý được truyền dạy trong các đạo viện huyền môn là do sự tiết lộ mà các đấng thánh nhân dành cho nhân loại từ lúc phát sinh những nền văn minh cổ xưa nhất, và nay giáo lý huyền môn cần được giữ gìn nguyên vẹn để duy trì sự tinh khiết của nó. Như thế, người ta hiểu tại sao khoa huyền môn được ẩn giấu cẩn mật và giữ gìn chặt chẽ ngoài tầm tay của kẻ thế nhân phàm tục.
Tại sao những vị đạo trưởng lại có một sự dè dặt vô cùng chặt chẽ như thế? Đó là vì những lý do mà chỉ có các ngài mới có thể biết được. Dù sao, các ngài hẳn là thấy cần phải loại những kẻ hoài nghi và bỡn cợt ra ngoài những kinh nghiệm thần bí dẫy đầy nguy hiểm cho tánh mạng của người thí sinh. Người ta không trao những viên ngọc quý cho kẻ tầm thường.
Ngoài ra, rất có thể là có nhiều người, vì không đủ sự chuẩn bị sẵn sàng cho một kinh nghiệm như thế, sẽ trở nên điên cuồng hoặc thiệt mạng sau cuộc thử thách. Bởi đó, lễ điểm đạo luôn luôn chỉ là đặc ân dành cho một số ít người xứng đáng. Nhiều người đã gõ cửa cầu xin điều đó ở các đền huyền môn nhưng vô ích. Những người khác, bị đặt dưới hàng loạt những cuộc thử thách sơ đẳng mỗi lúc một khó khăn hơn, không có đủ sự gan góc cần thiết để tiến xa hơn nữa, hoặc cảm thấy lòng ước muốn điểm đạo nguội bớt dần.
Về sau, sự sa đọa vật chất của con người đã làm cho các vị đạo trưởng chân chính của thời xưa dần dần biệt tích hoặc rút lui ra ngoài vòng thế tục, và thay chân các ngài là những kẻ phàm phu mê muội, làm hoen ố và hạ thấp khoa huyền môn cao cả. Những kẻ bất chính, có tham vọng đạt được những phép thần thông của bàng môn tả đạo, sau cùng đã chiếm ưu thế để giành quyền kiểm soát các đạo viện huyền môn ở Ai Cập và những nơi khác.
Những gì từ lúc nguyên thủy vốn là thiêng liêng, chỉ dành cho những người chọn lọc nhằm mục đích duy trì ngọn lửa thiêng tinh khiết của sự sống tâm linh cho được trường cửu trong nhân loại, đã lọt vào tay những kẻ tà tâm, buôn thần bán thánh. Đó là những sự kiện lịch sử, làm cho cái kho tàng tâm linh quí báu của nhân loại thời cổ xưa đã trở nên suy tàn. " -( Theo Ai Cập huyền bí ).
Chính vì vậy ngày xưa Thầy Tổ có truyền lại :
" Một đêm nọ Thày tôi đã dặn:
Này Chân sư , Pháp sư con nghe ta dạy,
Ấn tướng và Pháp chú - Là bí mật hiển vi.
Của Phật , Hiền, Thánh chúng.
Có cảm thì có ứng,
Và không thể giải thông.
Cũng không thể tạo khuôn,
Đệ tử muốn gia trì,
Hoặc truyền Đạo đại chúng.
Nên nhớ là lúc tập và lúc niệm,
Năng tinh tấn chuyên cần.
Và hành nơi vắng lặng.
Không cho ngoại Đạo niệm.
Bởi ấy sinh lòng tà,
Khinh khi hoặc khích nhiễu.
Đây là một nghiêm luật.
Đệ tử chiếu phụng hành . "
Thân ái - dienbatn .
Đăng nhận xét
Vui lòng không Spam