LƯỢC KHẢO VỀ CÁC HỆ PHÁI HUYỀN MÔN NAM TÔNG. 
PHẦN 2.NHỮNG HỆ PHÁI CƠ BẢN CỦA HUYỀN MÔN NAM TÔNG.

CẢNH BÁO : Các tài liệu trong loạt bài này các bạn không nên tự luyện tập nếu không có chân sư hướng dẫn. dienbatn không chịu trách nhiệm về hành vi tự ý luyện tập của các bạn nếu có hậu quả đáng tiếc. dienbatn.

I/ PHÁI TRÀ KHA . ( Tiếp theo ).
Gồng Trà kha và các giai thoại .
Một số bài chú và bùa gồng sưu tầm. ( Tiếp theo).

CHÚ THỔI U SƯNG.
Nô mô bốt the vo sách thum ,o a ách ây, óc âu rứt rư rưt rư , e ai a ô , a ôm á ( 7 biến ).


Chú : Ngô phụng Thái Thượng lão quân , cấp cấp như lực lịnh lai giang hạ phò trì đệ tử toàn thân ( 7 biến ).


* BA ÔNG TỔ LỚN NHẤT.

Ề hế tế dá mặc mặc.

Ề hế thế dái mặc mặc.

Ề hế Bi li mặc mặc.
Ba câu này kêu cho thường xuyên,

*  KINH KÊU TỔ.
Nam mô tassa phagavato arahato sammasambut tasac.
Khi muốn làm việc gì lớn phải đọc bài kinh này.

*  KINH KÊU TỔ,
Nô phích chi quých – Nô phích duol chanh – Ni hai ni duol – Nắt phích bích tíc – Nắt lom mô quên – Bíc quên bel thắt quên – Dul chai nắt lom – Lon lại nắt săng ti mô – Sa rắt pút thắt ma ních muốt mô ( 3 biến ).

* CHÚ ĐỌC TRỪ CÁC VIỆC DỮ, BIẾN HUNG HÓA CÁT.
Nặt tắng xa tha ( 7 biến ).

* CHÚ ĐỌC ĐỂ KHÔNG AI NÓI XẤU MÌNH.
Nặt sa lịch mặt – Không hại mình.
Nặt sa lịch á – Người ta không nói xấu.
Nặt sa lịch ú – Người ta thương mình.
Mê cha chách tăng – Kêu người cũ trở lại.

* CHÚ ĐỌC CHO PHÉP CỦA MÌNH LINH NGHIỆM.
Ir ra quá buốt thô mí .

* CHÚ LÀM CHO NGƯỜI TA MUỐM TÌM NHÀ MÌNH TÌM KHÔNG ĐƯỢC.
Ắc săn quýt sô ắc.



*KINH TÔM PHÉP CHO PHÉP Ở LẠI.

Sết so xăng-  á rặc hăn á ( 3 biến ) .

Xo xo thia dạ - xo a ra hăng.

*KINH TÔM KHÔNG CHO AI PHÁ PHÉP MÌNH.
Pút tế - tút tế - tặc tế.

* CÀ THA MỘT MẮT HỘ MẠNG CHO ĐỆ TỬ.

Chú : Khật tân quýt tân – Khật rê a ra hăng.
Khi cần thiết đọc thêm chú này :
Chút tế mút tế,

* KINH THỈNH TỔ CHÚ KHĂN.
Nam mô bổn sư thích ca mâu ni Phật.Thỉnh Hồng mông sơ khởi vạn linh linh. Niệm đạt Huỳnh đình siêu vạn quả. Tâm niệm Huỳnh đình Thiên Địa động. Siêu phàm nhập Thánh thác trần ai. Vạn kiếp Thần Tiên quy căn bổn.Tiễn vong hậu quá thượng liên đài. Hạ thỉnh Thích lịch kim quang phóng Phật lực tà tâm thối vạn tán,
* CẨN THỈNH HỒNG MÔNG.
Hồng mông chư Phật hội đồng cảm ứng hạ không bảo triều tâm pháp . Tam tinh thủ chấp , đại phóng quang minh . Chư Phật hộ hình bồng lai thiết hội . Lục Đinh lục Giáp , tam thập lục thiên can ,thất thập nhị Địa sát, cấp Thiên Long bát bộ , cộng bát lão chơn Tiên , hội ngũ hành , tam Giáo. Thỉnh bắc phương chân võ Như lai , hộ trợ ngô thân , niệm Quan âm ứng hiện . Chiếu thất tinh vạn đẩu . Chư Phật đồng chứng giám. Ngọc Hoàng thâu sắc hạ , vạn Thánh chí lai lâm. Chư Phật đồng hội diện thỉnh pháp chân ngôn. Thần khâm , quỷ phục trai Đàn pháp hội . Chư Phật hộ hình sử ngã chân linh. Đằng vân giá vũ, biến tướng phóng hình , lực sĩ âm binh , đồng văn pháp ngã thông minh, Thiên Địa biến hóa vô cùng . Pháp bố tứ tung ngũ hoành tróc quái, quân thâu vạn kiếp hoán vũ hô phong . Nguyện hồi Thiên ý thiết la thiết võng . Thủ chấp thập phương chuyển thạch di sơn . Ma Vương thúc thủ , kim cang thâu tróc , đả diệt tà tinh . Ly mị tàng hình, tam tinh hội ngã. Phi phù niệm chú , biến hóa oai thần , thông tam giới . Hữu hô hữu ứng, hữu hình. Lực sĩ huỳnh côn tứ phương tốc khởi . Kim cang hòa thủ bá vạn Thần tiên , xử ngã diên niên , ẩn thân hộ ngã, chánh Đạo ta bà ha , cấp cấp như luật lệnh.
* CHÚ VÀ BÙA .
Án Thiên thâu Địa quyền ám . Á phong vũ ám . Á lôi điển thần , thích lịch thần thiết võng bố ngũ phương tứ tung ngũ hoành . Hộ Thiên Long bát bộ , tróc phược hỗn nhị khí âm dương – Cấp cấp như luật lệnh. Án oanh oanh tá ha .


* CHO BỆNH ĐIÊN UỐNG NÓ KHÔNG HÀNH HUNG NỮA.

Chú : Càn nam, khôn nữ tiền thế nhân dân phối ngẫu. Bá tế mỹ tàn, ngô phung Tam sơn cửu hầu cấp cấp như luật lệnh.



* BẤT TỈNH NHÂN SỰ CHO UỐNG.


* BÙA THỔI TRẬT TAY CHÂN.

* BÙA ĐÁNH TÉ.
Lấy ngón tay cái bên tay trái họa bùa đánh té người NAM đi đằng trước.


* Lấy ngón tay cái bên tay trái họa bùa đánh té người NỮ đi đằng trước.


* BÙA CỬU DĨ TRẤN TÂM.
Bùa nào cũng phải có chữ bùa này. Dùng hộ thân và hộ các chữ bùa.
CHÚ :
Tả phết chống Thiên Địa – Thâu nhật nguyệt tinh.
Phết thượng hoành phong – Nhất điểm quỷ thần kinh.
Đông trấn , tây trấn – Nam bắc trấn.
Đông tây nam bắc – Thiên địa nhân.
Thìa thí thìa thá – Thìa mí thìa má.
Thìa má thìa tú – Thìa thá.
Luyện bằng đèn bão gắn 8 cung bát quái xung quanh, cung của bản mệnh mình trước mặt. Luyện đến khi đèn bão chớp tắt 3 lần thì ra luyện ngoài mặt trời.Lời dặn : Khi luyện phải nói thầm , không nói ra tiếng sợ động Thiên địa. Nếu đọc ra tiếng tức là thỉnh họ về, khi họ về đến nơi không thấy có chuyện gì nguy nan họ sẽ giận mình.Phải học thật thuộc nhão không sơ suất. Khi có sự nguy nan, đọc và quán bùa thì họ về che chở cho mình.

* BÙA ĐEO HỘ THÂN ĐAO KIẾM KHÔNG PHẠM.



VÕ THUẬT MIỀN TÂY NAM BỘ XƯA
Từ thuở mở đất tiền về phương Nam, do chống chọi với thiên nhiên, thú dữ và cướp phỉ, người Việt nơi đây đã sáng lập nhiều môn phái võ mang tính chiến đấu cao như Tân Khánh Bà Trà, Gò Công, Thất Sơn võ đạo….
Do ảnh hưởng phong trào kháng Pháp, nhiều chí sỹ khóc hận nước mất nhà tan đã lánh vào rừng sâu núi thẳm rèn binh chờ cơ hội cứu nước nên khắp miền Nam thuở trước, vùng nào cũng có một hệ phái ra đời. Ở vùng Thất Sơn - Nơi chưởng cơ Trần Văn Thành tụ nghĩa kháng chiến đã có hàng chục hệ phái xuất hiện.
Một số Chưởng môn truyền nhân của các hệ phái đều nhắc đến ông tổ Cử Đa - Một nhà sư tay không đã hổ ở núi Thiên Cấm Sơn. Cũng có thể đó là ông tổ chung nhiều môn phái võ có xuất xứ ở vùng thất sơn.
Tương truyền, ông Cử Đa là một trong số chỉ huy của Chưởng cơ Thành. Khi nghĩa quân bị thực dân Pháp đàn áp, các vị chỉ huy nghĩa quân phân tán lực lượngvao các cánh rừng già để bào toàn lực lượng và chờ đợi người liên lạc của Chưởng cơ Thành. Họ không ngờ rằng chủ soái đã bị giặc bắt và tử hình. Với quân số ít ỏi, Cử Đa không thể làm được gì ngoài việc chiêu mộ thêm nghĩa quân và ngày đêm luyện tập võ nghệ. Do ảnh hưởng tín ngưỡng và điều kiện rèn quân nên hệ phái tổ sư Cử Đa có võ pháp nghiêng về các thế tấn công quyền pháp và binh khí. Về võ đạo, hệ phái tôn vinh tinh thần dân tộc, chống ngoại xâm và tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh sư phụ (chỉ huy) bằng lời thề độc khi nhập môn. Về võ thuyết, hệ phái này lấy niềm tin từ “cõi âm”, vì vậy, ngoài những bài tập rèn luyện về thể chất, võ sinh còn phải luyện bùa, phép, ngải, chú. Do sống trong vùng rừng thiên nước độc, không có giấy tờ ghi chép nên các võ sinh chỉ học bằng cách truyền khẩu. Sau này, các đệ tử (Nghĩa quân) của tổ sư Cử Đa tiếp tục đi khắp nơi chiêu mộ nghĩa quân, chiêu mộ đến đâu huấn luyện võ thuật đến đó. Vì lưu trữ kiến thức võ học bằng trí nhớ nên chuyện tam sao thất bồn là lẽ đương nhiên. Sau nhiều thế hệ nối tiếp, dần dà, Thất Sơn võ phái biến thành nhiều chi phái khác nhau. Có nhiều chi Thất Sơn nhưng hầu hết đều không nhận ra bài quyền nào của nhau. Thậm chí có chi phái hoàn toàn không luyện đòn thế mà chỉ chú tâm vào huyền thuật, gọi là chi phái “thần quyền”. Khoảng thập niên 70 của thế kỷ trước, nhiều người đã cố công sưu tầm, tập hợp các tinh hoa của tổ sư Cử Đa nhưng chưa thành công đã giài tán do chiến tranh.
Ở Gò Công có hệ phái Lâm Sơn phát nguôn từ lực lượng kháng chiến của Trương Định. Sau nhiều thế hệ truyền nhân, hệ phái này cũng phân mảnh thành nhiều chi phái khác nhau.
KỲ TÍCH VÀ HUYỀN THOẠI
Một danh sư Thất Sơn võ đạo đã mai danh tại Long Xuyên, cho biết: “Ngày xưa (đầu thế kỷ 20) tỷ thí võ đài không như bây giờ. Do nhiều hệ phái, chi phái xuất sơn hoà nhập với cộng đồng, ai cũng muốn phái của mình là đệ nhất võ lâm nên các võ sư thường tổ chức tỷ thí võ đài để tranh ngôi cao thấp. Vì vậy, nhiều cuộc thư hùng tranh tài cao thấp đã diễn ra”.
Thông thường, các võ sỹ không bao giờ dám tỷ thí võ đài nếu không có sự đồng ý của sư phụ.
Tỷ thí võ đài ngày xưa khác xa với đấu võ đài ngày nay như một số người lầm tưởng.
Ngày xưa, những cuộc tỷ thí võ đài thường do sư phụ, huynh trưởng của môn phái này với môn phái kia hoặc chi phái này với chi phái kia “thách thức” nhau. Họ chọn một bãi đất trống giăng dây hoặc vẽ vòng trên mặt đất. Trước mỗi trận thư hùng, hai bên đều lập bàn thờ tổ tại đài võ, khấn vái. Sau đó, sư phu hoặc huynh trưởng mỗi bên lập bản giao kèo, quy ước. Bên cạnh là hai chiếc quan tài để sẵn.
Trận thư hùng giữa võ phái thần quyền Thất Sơn ở cù lao Ông Chưởng và võ phái Trà Kha ở Bạc Liêu được võ sư Ba ở Cao Lãnh, Đồng Tháp kể lại: “Lúc đó, tôi 15 tuổi vừa nhập môn bái sư võ phái Thất Sơn vài ngày. Sư phụ tôi là Bảy Hớn. Nghe mấy huynh trưởng kể lại, mấy ngày trước, khi mọi người đang luyện võ thì một người gốc Miên xuất hiện xin gặp sư phụ. Người này tên No Sa Dăm là môn đệ của võ sư No Sa gốc Nam Vang đang mở võ đường ở Bạc Liêu. Họ nghe danh Thất Sơn Thần quyền đã lâu, nay muốn thí võ đài để học hỏi. Sư phụ tôi nhận lời. Bữa tỷ thí võ đài, bà con nghe tin chèo xuồng kéo đến coi cả ngàn người. Theo giao kèo giữa hai sư phụ thì, mỗi bên chọn ra 5 võ sỹ đấu thành 5 cặp. Võ sỹ bên nào văng ra khỏi vòng vẽ, xem như thua. Võ sỹ bên nào đo ván, lưng chạm đất, xem như thua. Võ sỹ bên nào đưa một cánh tay lên trời xem như xin thua. Đấu không nghỉ giải lao, đến khi có người thắng kẻ thua mới kết thúc trận. Bên nào có người bị thương, bị chết tự lo liệu thuốc men, chôn cất, không bên nào được thưa kiện ra Chánh quyền thuộc Pháp. Nếu bị pháp luật truy cứu, bên này phải làm tờ bãi nại cho bên kia. Hai bên đấu với nhau chỉ vì sỹ diện môn phái chứ không mua bán, tranh chấp gì cả. Sư phụ tôi lựa 5 đệ tử giỏi nhất ra đấu. Kết quả, phía Thất Sơn 1 người bị gãy tay, 1 người bể be sườn. Phía Trà Kha 2 người gãy chân, 1 người bất tỉnh. Thất Sơn Thần quyền có chiêu phá mã, còn phía gồng Trà Kha thì có chiêu khóa tay vật. Xem như hai bên bất phân thắng bại hẹn sẽ có dịp tái đấu. Sau đó cánh mạng tháng 8 bùng nổ, hai bên không có dịp gặp lại nhau. Sau này nghe nói No Sa Dăm đào tạo được rất nhiều thế hệ võ sỹ giỏi. Học trò của No Sa Dăm đào tạo được những võ sỹ nỗi tiếng sau năm 1975 như No Sa Long, No Sa Liên…”. Năm 1973, võ sư Ba có dịp gặp lại võ sư No Sa tại Sài Gòn. Lúc bấy giờ No Sa là huyến luyện viên trưởng đoàn võ thuật Caqmpuchia dẫn đoàn võ sỹ Campuchia sang đấu võ đài do Tổng hội võ thuật Sài Gòn tổ chức.
Sau này, vào khoảng thập niên 60 thế kỷ 20, những cuộc tỷ thí chết chóc không được tổ chức nữa mà chỉ tổ chức đấu vọ đài theo luật thể thao. Luật thể thao quy định hai võ sỹ đấu với nhau phải cùng hạng cân, mỗi trận chỉ có 3 hiệp, mỗi hiệp 3 phút. Võ sỹ bên nào cũng có săn sóc viên y tế đi theo và cuộc đấu luôn có hội đồng trọng tài chấm điểm.
Thời điểm này, phong trào võ thuật vùng miền Nam bộ như có làn gió mới, nơi nào cũng có võ đường tên tuổi như cồn: Sa Đéc có lò võ Sáu Cường; Lý Suol ở Châu Đốc; Bảy Biển ở Kiên Giang; Ba Hoằng ở Long Xuyên; Tiểu La Thành ở Vĩnh Long. Nhiều võ sư tạo được tiếng vang nhờ đào tạo được những võ sỹ vô địch trong các trận đấu võ đài. Đến tận ngày nay, những võ sư ấy vẫn còn được nhiều người nhắc như: Hai Diệp, Lê Bình Tây, Mười Nho, Nguyễn Mách, Cao Lý Nhơn, Út Dài, Phạm Thành Long, Lý Huỳnh Yến, Lâm Văn Có, Thiên Đường, Đoàn Tâm Ảnh, Tần Hớn, Vương Văn Quảng, Lâm Hổ Hội, Lê Hông Chương, Mười Cùi, Từ Thiện, Hồ Tường, TRần Xil, Lê Đại Hoan, Minh Sang… rất nhiều.
Họ thường tổ chức thi đấu tại Chợ Lớn (quận 5) mang tính giao hữu với các quốc gia trong khu vực như Campuchia, Hồng Kong. Trong những cuộc đấu giao lưu ấy, nhiều võ sỹ Việt Nam đã tạo được sự thán phục của các võ sư, võ sỹ nước ngoài. Báo chí thể thao dạo ấy đã bình luận từng tuyệt chiêu của các võ sỹ. Võ sỹ Minh Sang (võ đường Minh Sang) nỗi tiếng gan lỳ và ngọn quyền vũ bão; Võ sỹ Minh Sơn (võ đường Denis Minh) có cú đấm như điện xẹt; Võ sỹ Xuân Quỳnh là “cây trụ đồng của võ đường Kim Kê”… Những trận thư hùng này đã khiến các đối thủ nước bạn nhớ những tên đòn thế: “Bàn sa cước” của võ sỹ Nguyễn bình; Cú húc chỏ “hồi mã thương” của Minh Sơn; “Liên tiền cước” của Trần Nho…
Các nữ võ sỹ Việt cũng tạo nên song gió như Hồ Ngọc Thọ (võ đường Từ Thiện) vô dịch hạng ruồi nhẹ; Lân Ngọc Vân (võ đường Lâm Sơn Hải) vô địch hạng ruồi; Võ sỹ Xuân Liễu (võ đường Biên Hòa) vô địch hạng ruồi.
Trong một trận thư hùng giữa võ sỹ Việt với các võ sỹ Hong Kong là môn đệ của Lý Tiểu Long Vịnh Xuân Quyền xảy ra năm 1973 khiến báo chí thể thao miền Nam lúc đó tốn khá nhiều công sức bình luận. Trong đợt thi đấu này võ sỹ Trần Mạnh Hiền Việt Nam đã thắng tuyệt đối bằng nốc ao võ sỹ Châu Đạt Vinh Hong Kong bằng một cú đá thần sầu ở hiệp ba khiến khán giả hâm mộ võ thuật sôi sục. Ngày nay, những võ sỹ thuở ấy đã trở thành đại võ sư.
Nhờ những trận đấu võ đài ấy, các võ đường Việt Nam nườm nượp môn sinh đến đăng ký học võ. Thời điểm đó, học phí mỗi tháng khoảng 700 đồng/học viên. Chỉ cần huấn luyện 100 võ sinh là sư phụ có thể yêm tâm về cơm áo gạo tiền để chuyên tâm nghiên cứu võ học. Thời điểm đó, chiếc xe Hon Da 67 còm măng chính hãng, giá khoảng 15.000 đồng/ chiếc.
Bỗng dưng thời hưng thịnh của võ học Việt xẹp lép. Nhiều võ sư chạy theo kế sinh nhai bỏ nghề. “Loạn võ sư” bắt đầu manh nha phát triễn. Nhiều môn phái không hiểu từ đâu xuất hiện như: Sát Tử Quyền, Bạch Long Sát Tử Quyền, Vô Biên Võ đạo, Nghịch Tất Tử Võ phái, Cao Đài quyền pháp. Thậm chí một cơ sở sản xuất thuốc sơn đông mãi võ cũng tự sáng tác ra môn phái “Y võ” rồi tự lu loa là võ Việt Nam cổ truyền…
Nhiều nước đã tôn vinh môn võ xuất sắc của họ như Indo có pencatxilat, Trung Hoa có Thiếu lâm, Thái Lan có Maya… Còn Việt Nam, môn phái nào là Việt Nam võ đạo cổ truyền chính hiệu? Điều đầu tiên, có lẽ nên cấm tiệt những kiểu tự sáng tác vài bài quyền múa rối rồi xưng danh Võ Cổ Truyền Việt Nam kẻo làm mất mặt những tổ sư Việt và hãy giữ lại những tinh hoa của võ học Việt có từ trăm năm trước.
( http://maxreading.com/sach-hay/tu-lieu-vo-thuat/vo-cong-viet-nam-31183.html ).
Xem video Thất sơn Thần quyền.

http://www.youtube.com/watch?v=0qZg0qXYybs&ft=li

Xin xem tiếp bài 6. dienbatn.

Đăng nhận xét

Vui lòng không Spam

 
Top
cho tat ca link nofollow